Đã mười đêm qua
Nghe trà niêm Phật
“Di Đà, Di Đà!”
Buson
(Ana toto
Cha mo dabu – dabu to
Juya kana)
Trong khi chùa vang tiếng niệm Phật từng đêm thì khi chuyên trà, trà cũng hát “dabu-dabu”. Cả thế gian cũng vang rền thanh âm sâu thẳm này: “Phật”!
Thanh âm đó là tiếng reo vui. Vì Phật pháp chính là pháp vui. Trà reo vui như trẻ thơ reo vui. Trà ngát hương như tên Phật ngát hương.
Và cả trần gian yêu trà.
Uống trà đi! Kissako! Khiết trà khứ! Uống trà đi!
–Thế nào là lời Phật dạy?
-Uống trà đi! Thiền sư đáp.
Triệu Châu mời một vị Tăng đạt ngộ uống trà, mời một vị Tăng sơ cơ uống trà…, mời cả cõi Ta bà uống trà. Uống trà đi! Lời sư vang như sấm nhưng thiết tha từ ái như lão bà.
Vân Nham đang nấu nước pha trà. Đạo Ngô Viên Trí hỏi: – Cho ai?
Vân Nham: – Có người cần.
Đạo Ngô: – Sao y không tự nấu?
Vân Nham: – Có tôi. Tôi là y.
Vân NHam kh6ong chỉ là “y”, là kẻ nào đó đang khát, đang cần trà, cần pháp, Vân Nham chính là trà.
Vì thế Vân Nham, cũng như trà, vẫn hằng reo lên: Phật Đà! Phật Đà!
Hay: Di Đà, Đi Đà! Có gì khác biệt? Phật có vô số tên gọi và cũng vô danh.
Phật, đó đâu phải là cái tên. Và ai bảo rằng trái tim có một cái tên?
Cả bồ câu dường như cũng hiểu điều đó:
Sương rơi mờ mờ
Bồ câu niệm Phật
Nam mô – nam mô
Issa
(Tsuyu horori
Horori to hato no
Nebustu kana).
Tiếng gù của bồ câu có Phật, có sương, có thiê nhiên và luôn luôn có bồ câu tính, có bồ câu – bản nguyên.
Tăng hỏi Thiền sư:
– Nghe nói bầu trời không mây vẫn không phải là bầu trời bản nguyên. Thế nào là bầu trời bản nguyên?
Sư đáp:
– Hôm nay trời tốt, đem lúa ra phơi!
Sương rơi thì bồ câu gù, trời tốt thì đem lúa phơi!
Bồ câu là bồ câu là bồ câu.
Bầu trời là bầu trời là bầu trời.
Và bầu trời có khác với đêm tối không khi trong lòng bóng tối Issa niệm Phật:
Bao la đêm dài
Đêm dài bao la
Nam mô A Di Đà!
(Nagai zo yo
Yo ga nagai zo yo
Namuamida).
Không phải Issa “Nam mô A Di Đà” để chống lại đêm tối. Bởi vì khi ta chống lại điều gì, điều ấy sẽ có cơ hội trở nên mạnh mẽ hơn, hắc ám hơn. Mà tiếng Nam mô ấy sẽ tràn ngập bóng tối một Phật tính còn bao la hơn bản thân bóng tối.
Bóng tối hữu hạn, Phật tính vô viên.
Bóng tối vẫn còn đó. Nhưng nó kh6ong còn chống lại Issa. Nó lại là nó, đúng như thế. Và Issa lại là Issa, đúng như thê.
Như nai con ra đời vào ngày Phật ra đời trong bài haiku của Basho:
Nai con ơi
Vào ngày tắm Phật
Mừng em ra đời!
(Kambutsu no
Hi ni umareau
Kanoko kana).
Ngày tắm Phật (Kambutsu) là ngày Phật đản. Người ta lấy trà xanh thơm dịu tưới liên tục lên một pho tượng Phật nhỏ.
Trong không khí lễ hội đầy hoan lạc đó, một bé nai vừa mới ra đời gần chùa, sao mà hay thế!
Basho vui vì nai ra đời hay vì Phật ra đời? Ông cũng không biết, không phân biệt. Một niềm vui trước mọi cảnh tượng nhiệm mầu.
Không phải con người nào khi ra đời cũng được đón mừng như bé nai ấy. Trong ngày Phật đản, người ta để ý đến một chú tiểu và thì thầm với nhau: Chú tiểu đó trước đây là một đứa bé bị bỏ rơi trước chùa!
Ngày Phật ra đời
Chú tiểu ngày nay ấy
Xưa là đứa con rơi!
Kikaku
(kanbutsu ya
Sutego sunawachi
Tera no chigo).
Chú tiểu bị để ý vì cái bí ẩn của đời chú. Chú có một tiểu sử bị che khuất trong sương mù vô minh. Nhưng ai không vô minh?
Và chú tiểu còn rất bé đó nhìn cảnh tắm Phật. Với chú, Bụt là gì?
Bụt ơi, Bụt là
Hoa đào nở ngát
Pha màu trăng xa.
Hoitsu
(Hotke to wa
Sakura no hana ni
Tsuki yo kana).
Nhà thơ Hoitsu nhìn thấy Bụt là hoa đào đêm trăng. Nhưng hoa đào, hoa đào là gì? Có lần, một nhà thơ khác là Taigi nhìn thấy hoa đào trong hóa thân bụi cát:
Vường chùa chiều nay
Cát bụi ai quét
Là hoa đào bay
(Chiri wa mina
Sakura nari keri
Tera no kure).
Hoa đào là cát bụi, cát bụi là hoa đào. Như Phật và chúng sinh.
Phật là hoa đào. Và không phải như thế. Bởi đời sống không thể nào định danh.
Tăng hỏi Huệ Tĩnh:
–Thế nào là Phật?
Huệ Tĩnh:
– Con mèo trèo cây cột cái.
Vì Tăng không hội, Tuệ Tĩnh bảo:
– Hãy hỏi cây cột cái.
Được, hãy hỏi cây cột cái, hãy hỏi con mèo, hỏi sự vật, hỏi thiên nhiên. Hãy hỏi bằng cái nhìn, hãy hỏi bằng trái tim, bằng nhịp điệu của cuộc sống. Sống.
Đừng hỏi câu hỏi chết. Thế thôi!
Nếu chỉ tìm thấy Phật trên đài sen, trong hoa đào thì Phật “hẹp” đến thế ư? Trong cõi Ta bà này, Phật ở đâu?
Tăng: –Có thấy Phật không?
Sư: – Có.
Tăng: – Thấy Phật bên phải hay bên trái?
Sư: – Không phải không trái.
Cái thấy tối thượng không có vị trí. Không hoa đào, không hoa sen.
Đã có người ta
Có ruồi có nhặng
Có Bụt đây mà
Issa
(Hito areba
Hae ari hotoke
Ari ni keri).
Đáng ngạc nhiên là thế giới. Thế giới nặng đến vô cùng và nhẹ đến vô cùng. Tràn đầy ánh sáng và tràn đầy bóng tối. Có ruồi nhặng khắp nơi và có Phật khắp nơi. Cái thế giới này chứ kh6ong phải thế giới nào khác nơi mà con người yêu Phật hơn cả.
Thế giới của “người im lặng” (Muni) và vô số âm thanh:
Mưa muôn giọt rơi rơi
Tiếng ve ngân muôn giọng
Bụt đây mà, Bụt ơi!
Issa
(Moro –zemi ya
Moro – amadare ya
Omido).
Biết bao nhiêu là giọt mưa, biết bao nhiêu là tiếng ve. Nhưng tất cả ra đi từ Niềm lặng im vĩnh cửu. Ra đi và trở về. Như trở về với Đại Phật Đường.
Mưa thì rơi và ve thì kêu. Muni ơi, sao người im lặng? Bởi vì người im lặng.
Người im lặng như một vầng trăng.
Vầng trăng thu
Ngồi như dáng Phật
Rạng ngời ôn nhu
Issa
(Meigetsu ya
Hotoke no yo ni
Hiza wo kumi).
Ngồi một mình, ngồi im lặng. Nhưng có gì phổ hiện như trăng (Nhất nguyệt phổ hiện nhất thiết thủy).
Cũng như Phật, trăng mọc rồi lặn. Nhưng trăng không đi đâu. Không mất. Vẫn còn đó trong bầu trời. Vẫn còn đó trong chân không (Nguyệt lạc bất ly thiên).
Vẫn còn đó như bao giờ một vầng trăng Phật.
Nhật Chiêu